Cổng thông tin điện tử huyện Hậu Lộc
Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013

Năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương, cùng với sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh ta vẫn giữ được ổn định và tiếp tục phát triển

Năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương, cùng với sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh ta vẫn giữ được ổn định và tiếp tục phát triển. Trong số 16 chỉ tiêu chủ yếu, có 10 chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Kết quả cụ thể trên các lĩnh vực chủ yếu như sau:

Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, một số chỉ tiêu tăng khá so với cùng kỳ và vượt mục tiêu đề ra

Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 10,3%, tuy thấp hơn kế hoạch (13,5%) và cùng kỳ năm trước (12,3%), nhưng gấp gần 2 lần so với bình quân cả nước (khoảng 5,2%). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng: tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản trong GDP chiếm 21,6%, giảm 2,2%; công nghiệp - xây dựng chiếm 43,6%, tăng 1,8%; dịch vụ chiếm 34,8%, tăng 0,4% so với cùng kỳ.

Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển ổn định và tương đối toàn diện; giá trị sản xuất toàn ngành tăng 4,7% so với cùng kỳ, trong đó: nông nghiệp tăng 3,7%, lâm nghiệp tăng 10,3%, thủy sản tăng 7%. Sản xuất lương thực đạt kết quả khá; năng suất, sản lượng lúa cả năm đạt mức cao nhất từ trước đến nay: năng suất lúa đạt 57,8 tạ/ha (vụ chiêm xuân 64,3 tạ/ha, vụ mùa 51,8 tạ/ha), tăng 1,9% so với kế hoạch và 4,1% so với cùng kỳ; sản lượng lúa đạt 1.483 nghìn tấn, tăng 4,6% so với kế hoạch và tăng 3,9% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng lương thực ước đạt 1,685 triệu tấn, vượt mục tiêu đề ra, đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn. Chăn nuôi phát triển ổn định; đàn lợn tăng 3%, đàn gia cầm tăng 2,2%; sản lượng thịt hơi tăng 3,7% so với cùng kỳ.

Khoanh nuôi tái sinh, chăm sóc, bảo vệ rừng được thực hiện theo kế hoạch (khoanh nuôi tái sinh 30.000 ha, chăm sóc 38.500 ha, bảo vệ 545.080 ha); trồng rừng đạt 10.893 ha, tăng 27,7% so với cùng kỳ; trồng cao su đạt 2.622 ha, vượt 4,9% kế hoạch; tỷ lệ che phủ rừng đạt 50,5%, hoàn thành mục tiêu đề ra. Công tác phòng chống cháy rừng được quan tâm chỉ đạo, nên không có cháy rừng lớn.

Sản xuất thủy sản tăng trưởng khá do thời tiết thuận lợi và ngư dân tích cực đầu tư máy móc, thiết bị nâng cao năng lực khai thác xa bờ; giá trị sản xuất ước đạt 1.098 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ; sản lượng ước đạt 116 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ, trong đó khai thác xa bờ tăng 30%.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo và bước đầu đạt kết quả tích cực. Đã kiện toàn Ban chỉ đạo từ tỉnh đến xã; hoàn thành công tác lập, phê duyệt quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới. Hoàn thành công nhận kết quả rà soát tiêu chí nông thôn mới, bình quân mỗi xã tăng từ 1 đến 3 tiêu chí so với đầu năm, riêng xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa) và Quý Lộc (Yên Định) đã hoàn thành 19 tiêu chí. Thực hiện chỉ đạo ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương, có 117/117 xã làm điểm đã ký hợp đồng mua xi măng Bỉm Sơn, Nghi Sơn để xây dựng hạ tầng; các địa phương đang tiếp tục huy động nguồn lực trong nhân dân, kết hợp với nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước để xây dựng nông thôn mới.

Sản xuất công nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá; giá trị sản xuất ước đạt 23.670 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ, trong đó: công nghiệp khai thác mỏ tăng 12,4%; công nghiệp chế biến tăng 13,2%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước tăng 20%. Một số sản phẩm tăng khá so với cùng kỳ gồm: clinker tăng 24%, đường tăng 25%, ô tô tải tăng 30%, thủy sản chế biến gấp 4,5 lần, ferocrom gấp 2 lần, giày tăng 54%, quần áo tăng 26%... Trong năm, một số cơ sở công nghiệp hoàn thành đi vào sản xuất như: dây chuyền 2 đường Lam Sơn (mở rộng), giày Nghi Sơn, may Nga Sơn, may Hoàng Giang, chế biến thuỷ hải sản Long Hải (mở rộng), gỗ Thành Nam.

Công tác vận động, xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh; quan hệ hợp tác với các nhà tài trợ, các tổ chức tài chính lớn được mở rộng và đạt kết quả tích cực. Tỉnh đã tổ chức hội nghị và làm việc với các tổ chức tài chính lớn như WB, ADB, JICA, một số đại sứ quán tại Việt Nam... để vận động tài trợ và thúc đẩy tiến độ thực hiện các dự án ODA; tiếp tục thực hiện thỏa thuận hợp tác với TP. Hà Nội và tỉnh Hủa Phăn (Lào);  tổ chức thành công hoạt động xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản và tham gia hội nghị xúc tiến đầu tư tại một số địa phương; thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch. Đến nay, một số dự án như: hệ thống tưới Bắc sông Chu - Nam sông Mã; phát triển cơ sở hạ tầng vùng duyên hải huyện Nga Sơn; nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững; phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ; đê tả sông Cầu Chày đã ký hiệp định tài trợ và đang triển khai thực hiện với tổng mức đầu tư khoảng 5.400 tỷ đồng, trong đó vốn ODA là 153 triệu USD.

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 27 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 17.200 tỷ đồng, trong đó có 2 dự án FDI với vốn đầu tư 28 triệu USD. Trong năm đã thành lập mới 950 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký tăng 3% so với cùng kỳ; toàn tỉnh hiện có 6.425 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 73% số doanh nghiệp được cấp đăng ký thành lập. Thực hiện chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đã gia hạn nộp thuế VAT cho 2.836 lượt doanh nghiệp với số tiền 214 tỷ đồng; giảm 50% tiền thuê đất cho 77 doanh nghiệp với số tiền 16 tỷ đồng.

Các ngành dịch vụ duy trì tốc độ tăng trưởng khá; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 41.609 tỷ đồng, vượt 4% kế hoạch, tăng 28% so với cùng kỳ (tăng 17% nếu loại trừ yếu tố giá). Hoạt động thương mại đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; công tác quản lý thị trường được tăng cường, đã tập trung kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống sản xuất, buôn bán hàng giả, gian lận thương mại; giá cả hàng hóa, dịch vụ ổn định; chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn so với bình quân cả nước.

Xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 730 triệu USD, vượt 29% kế hoạch, tăng 47% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu chính ngạch đạt 593 triệu USD, vượt 54% kế hoạch, tăng 69% so với cùng kỳ. Nhập khẩu ước đạt 296 triệu USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ.

Hoạt động du lịch, lễ hội diễn ra sôi động; ngành du lịch ước đón được 3,5 triệu lượt khách, tăng 4% so với cùng kỳ, trong đó khách quốc tế tăng 39%; doanh thu du lịch ước đạt 1.680 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ. Vận tải ước đạt 34,5 triệu tấn hàng hóa, tăng 14% và 18,8 triệu lượt khách, tăng 17% so với cùng kỳ. Bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển, giá cước tiếp tục giảm, chất lượng dịch vụ được cải thiện; mật độ điện thoại đạt 60 máy/100 dân.

Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước đạt 26.014 tỷ đồng, tăng 21,5% so với cùng kỳ; tổng dư nợ ước đạt 39.780 tỷ đồng, tăng 12%. Lãi suất huy động ngắn hạn bằng VNĐ giảm từ 14%/năm xuống còn 9%/năm; lãi suất cho vay giảm, mức cho vay cao nhất còn 15%/năm từ ngày 15/7. Dư nợ cho vay với lãi suất ≤ 15%/năm là 17.821 tỷ đồng, chiếm 71% tổng dư nợ. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ; đến nay, dư nợ cho vay 4 lĩnh vực trên chiếm 44% tổng dư nợ. Đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 179 khách hàng với tổng dư nợ 565 tỷ đồng.

Tổng thu ngân sách ước đạt 6.189 tỷ đồng, vượt 14% dự toán tỉnh giao, trong đó thu nội địa đạt 4.489 tỷ đồng, bằng 96,3% dự toán HĐND tỉnh giao; có 5/16 lĩnh vực hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch gồm: thu doanh nghiệp FDI, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê mặt đất, mặt nước và thu cố định tại xã. Chi ngân sách nhà nước ước đạt 18.789 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao.

Công tác quản lý nhà nước về đất đai, khoáng sản được tăng cường; việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai được thực hiện theo kế hoạch; quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015 của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Công tác kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động khai thác, buôn bán, vận chuyển khoáng sản trái phép được quan tâm chỉ đạo. Công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng, định giá, đấu giá quyền khai thác các mỏ khoáng sản được tập trung thực hiện. Công tác kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường được tăng cường; đã giám sát môi trường tại 100 cơ sở sản xuất, phát hiện và xử lý 15 cơ sở vi phạm. Thanh tra 25 đơn vị được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất của 14 đơn vị với diện tích hơn 63 nghìn m2.

Huy động vốn đầu tư phát triển trên địa bàn ước đạt 40.725 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ, trong đó: vốn ngân sách nhà nước tăng 12%, vốn tín dụng đầu tư phát triển tăng 10%, vốn của doanh nghiệp nhà nước tăng 18%, vốn dân cư và các thành phần kinh tế khác tăng 33%.

Mặc dù kế hoạch vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ năm 2012 Trung ương giao chậm, việc thực hiện một số nội dung theo Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ còn vướng mắc, nhưng với sự chỉ đạo, điều hành cụ thể, quyết liệt của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, sự cố gắng của các ngành, các cấp, các chủ đầu tư, nên việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có chuyển biến tích cực. Giá trị khối lượng thực hiện ước đạt 4.660 tỷ đồng, bằng 97% kế hoạch; giải ngân ước đạt 98% kế hoạch. Công tác quản lý, sử dụng vốn có chuyển biến tích cực; lũy kế số dư tạm ứng đến 31/10 còn 1.330 tỷ đồng, giảm 25% so với đầu năm; số dư tạm ứng từ năm 2011 trở về trước giảm 955 tỷ đồng (giảm 54%). Trong năm, đã hoàn thành nâng cấp, cải tạo 49 km đường tỉnh, 487 km đường nông thôn; 55 km đê sông, đê biển; tăng năng lực tưới cho trên 4.500 ha; kiên cố hóa 390 phòng học, 203 nhà công vụ giáo viên; đưa vào sử dụng 59 công trình nước sạch; 280 giường bệnh và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị của 19 bệnh viện đa khoa tuyến huyện, tuyến tỉnh.

Lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm chỉ đạo và có nhiều chuyển biến tiến bộ; một số vấn đề xã hội bức xúc được giải quyết; các chính sách an sinh xã hội được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng

Hoạt động khoa học công nghệ được thực hiện theo hướng đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống. Trong năm đã triển khai thực hiện 129 nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh, đã nghiệm thu 16 nhiệm vụ. Công tác thanh tra, kiểm tra tiêu chuẩn đo lường chất lượng được tăng cường, tập trung vào các đơn vị kinh doanh xăng dầu, khí hóa lỏng và kinh doanh hàng gia dụng; đã thanh tra, kiểm tra 338 cơ sở, phát hiện và xử lý 28 cơ sở vi phạm.

Hoạt động văn hóa, thông tin đã tập trung tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh, nhất là tuyên truyền việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tổ chức thành công Lễ đón bằng công nhận Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ gắn với Hội nghị tham vấn các Ủy ban quốc gia UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương; tổ chức thành công Tuần văn hóa hữu nghị Thanh Hóa - Hủa Phăn nhân kỷ niệm 45 năm ngày ký kết hợp tác giữa 2 tỉnh. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tiếp tục được quan tâm; đã khai trương xây dựng 230 làng, bản, cơ quan và 20 xã văn hóa. Công tác quản lý lễ hội dần đi vào nề nếp, hạn chế việc lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan, tổ chức đánh bạc.

Phong trào thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục được duy trì, tỷ lệ dân số tham gia luyện tập thể thao thường xuyên tăng 1% so với cùng kỳ; trong năm đã tổ chức thành công giải Việt dã toàn tỉnh lần thứ 16 và nhiều giải thể thao quần chúng khác; đoàn thể thao của tỉnh xếp thứ 8 tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ 8. Thể thao thành tích cao giành 320 huy chương (90 HCV) tại các giải thi đấu quốc gia, quốc tế; đặc biệt, tại Giải vô địch điền kinh trẻ toàn quốc năm 2012, đoàn thể thao của tỉnh giành 11 huy chương (7 HCV), xếp thứ nhất toàn đoàn.

Ngành giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông; giáo dục mũi nhọn đạt kết quả tích cực. Đã hoàn thành chuyển đổi các trường mầm non bán công sang công lập; tỷ lệ học sinh THPT tốt nghiệp đạt 99,7%, tăng 0,6% so với năm học trước; kỳ thi đại học, cao đẳng năm 2012, học sinh tỉnh ta đạt trung bình 11,21 điểm (năm 2011 là 11,08 điểm), xếp thứ 25 cả nước và có 4 trường nằm trong tốp 200 trường có điểm thi cao nhất cả nước; Trường Đại học Hồng Đức đã tuyển sinh 2.510 sinh viên, bằng 85% chỉ tiêu kế hoạch. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, tỉnh ta đạt 65 giải (1 giải nhất); 1 học sinh đạt huy chương vàng Olympic vật lý châu Á - Thái Bình Dương và huy chương bạc Olympic vật lý quốc tế, 1 học sinh đạt huy chương đồng Olympic toán quốc tế. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm, có thêm 61 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng số trường đạt chuẩn lên 834 trường. Công tác xã hội hóa giáo dục, khuyến học, khuyến tài đạt kết quả tích cực.

Ngành y tế đã tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; nhiều kỹ thuật chuyên sâu được áp dụng vào khám, chữa bệnh; số bệnh nhân phải chuyển tuyến giảm so với cùng kỳ; dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 71,2%, tăng 1,2% so với cùng kỳ. Công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm; đã kiểm tra 14.644 cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm, phát hiện và xử lý 1.858 cơ sở vi phạm. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản được quan tâm; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm 2,1% so với cùng kỳ. Trong năm đã hoàn thành đưa vào hoạt động 1 bệnh viện ngoài công lập, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được quan tâm; đã đào tạo nghề cho 62.200 lao động, tạo việc làm mới cho 59.000 lao động, trong đó có 9.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài; tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,07% so với cùng kỳ. Các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời; trong năm đã hỗ trợ 5.590 tấn gạo cho các hộ nghèo, hộ thiếu đói, người khiếm thị có hoàn cảnh khó khăn và gia đình bị ảnh hưởng của thiên tai.

Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm thực hiện

Lực lượng vũ trang đã thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình tuyến biên giới, trên biển và địa bàn trọng điểm, chủ động xử lý các tình huống, không để xảy ra bất ngờ; tham gia có hiệu quả trong công tác phòng chống bão lụt, khắc phục hậu quả thiên tai. Tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh; công tác kiểm tra, huấn luyện lực lượng thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, hậu cần, kỹ thuật được thực hiện theo kế hoạch.

Công an tỉnh đã tổ chức nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, phức tạp. Trong năm, đã phát hiện, xử lý 1.785 vụ phạm pháp hình sự; điều tra làm rõ 1.410 vụ, với 2.857 đối tượng phạm tội và vi phạm trật tự xã hội, chuyển khởi tố điều tra 966 vụ, với 1.845 bị can, điển hình là vụ bắt giữ và khởi tố 5 đối tượng trong nhóm tội phạm chuyên hoạt động tín dụng đen, can thiệp vào các hoạt động kinh tế, được nhân dân hoan nghênh. Tình hình an toàn giao thông có chuyển biến tích cực; tai nạn giao thông giảm 7% về số vụ, 12% số người chết và 9% số người bị thương so với cùng kỳ.

Cải cách hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước tiếp tục được thực hiện, trọng tâm là rà soát, đơn giản hoá hồ sơ, thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính; kiểm soát việc ban hành mới và công bố công khai các thủ tục hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO vào quản lý điều hành. Công tác thanh tra được thực hiện theo kế hoạch; thanh tra phục vụ phòng, chống tham nhũng được tăng cường. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo được quan tâm giải quyết từ cơ sở; một số vụ khiếu nại kéo dài được tập trung giải quyết. Công tác phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ chính trị giữa các cấp chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể được tăng cường, thiết thực và hiệu quả hơn.

Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 vẫn còn những hạn chế, yếu kém, đó là:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp so với cùng kỳ và kế hoạch; chất lượng tăng trưởng chưa có chuyển biến rõ rệt; tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn.

Diện tích và sản lượng nông sản vụ đông đạt thấp so với kế hoạch và cùng kỳ; đàn trâu, bò tiếp tục giảm; trồng rừng tập trung mới đạt 64% kế hoạch; chất lượng giống thủy sản di ương từ tỉnh ngoài chưa được kiểm soát chặt chẽ. Tình trạng trộm cắp ngư lưới cụ và sử dụng xung điện, thuốc nổ trong khai thác thủy sản còn xảy ra. Tiến độ xây dựng nông thôn mới chậm so với kế hoạch.

Sản xuất công nghiệp không đạt kế hoạch đề ra (giá trị sản xuất đạt 95%); một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu như bia, xi măng, gạch, bao bì, thức ăn gia súc, gang luyện,… đạt thấp so với kế hoạch do khó khăn về thị trường tiêu thụ và thiếu nguyên liệu sản xuất.

Lãi suất cho vay đã giảm mạnh so với đầu năm, nhưng vẫn còn ở mức cao; doanh nghiệp khó tiếp cận vốn do không đáp ứng được điều kiện vay; khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Số doanh nghiệp thành lập mới giảm 11% so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, tạm nghỉ kinh doanh tăng; trong năm có 398 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, tăng 31% và 648 doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh, tăng 25% so với cùng kỳ. Trong số các doanh nghiệp đang hoạt động, bình quân hàng tháng có 28% số doanh nghiệp không phát sinh doanh thu.

Thu nội địa không đạt dự toán tỉnh giao (đạt 96,3%); có 11/16 khoản thu không hoàn thành kế hoạch, trong đó một số khoản thu đạt thấp như: thu doanh nghiệp nhà nước trung ương (82%), thu từ doanh nghiệp nhà nước địa phương (87%), thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh (83%), lệ phí trước bạ (82%), thu phí lệ phí (82%). Tình trạng nợ đọng thuế có xu hướng tăng; tiến độ thu tiền sử dụng đất, cấp quyền khai thác khoáng sản còn chậm.

Tiến độ thực hiện nhiều dự án trọng điểm chậm, nhất là các dự án công nghiệp; việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án BT và dự án có sử dụng đất chậm do thị trường bất động sản trầm lắng và năng lực tài chính của các nhà đầu tư hạn chế; một số địa phương, chủ đầu tư chưa thực hiện nghiêm chỉ đạo về sử dụng vật liệu do các đơn vị trong tỉnh sản xuất có chất lượng và giá thành tương đương. Công tác GPMB tuy được quan tâm chỉ đạo và có chuyển biến nhưng ở nhiều dự án lớn vẫn còn vướng mắc, chưa được giải quyết. 

Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, cấp xã còn chậm; công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản tuy đã được quan tâm thực hiện và có nhiều chuyển biến, nhưng tình trạng khai thác, buôn bán, vận chuyển khoáng sản trái phép còn diễn ra ở một số địa phương; ô nhiễm môi trường ở một số cơ sở sản xuất, bệnh viện, khu du lịch vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Một số vấn đề xã hội bức xúc như: tranh chấp lao động tập thể còn xảy ra; nhà ở và đời sống công nhân ở các khu công nghiệp còn nhiều khó khăn; nợ đọng bảo hiểm xã hội ở các doanh nghiệp có chiều hướng gia tăng, đến ngày 31/10 có 402 đơn vị nợ BHXH từ 6 tháng trở lên với số nợ trên 70 tỷ đồng; công tác quản lý lao động người nước ngoài còn bất cập; tai nạn lao động gia tăng. Việc sắp xếp, bố trí, tuyển dụng và điều động giáo viên ở một số địa phương còn bất cập; giải quyết giáo viên dôi dư còn chậm; sai phạm trong liên kết đào tạo, lạm thu ở các trường học còn xảy ra. Dịch tay chân miệng chậm được khống chế, số bệnh nhân tăng 48% so với năm 2011; tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng tăng.

Khiếu kiện đông người, vượt cấp còn xảy ra ở một số địa phương; tranh chấp đất đai liên quan đến tôn giáo, truyền đạo trái phép diễn biến phức tạp; tình trạng lao động làm thuê bất hợp pháp cho các tàu cá nước ngoài chưa được giải quyết dứt điểm; tệ nạn ma túy, số đề, cờ bạc, tội phạm có tính chất băng nhóm, sử dụng vũ khí, hung khí nguy hiểm, hoạt động tín dụng đen, đòi nợ thuê còn diễn ra. Tai nạn giao thông tuy giảm so với cùng kỳ nhưng vẫn còn ở mức cao.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành của một số ngành, địa phương chưa thực sự sâu sát, chi tiết, cụ thể, thiếu trọng tâm trọng điểm, thiếu quyết liệt; trách nhiệm của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ chưa cao; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm. Việc xây dựng một số chỉ tiêu kế hoạch chưa sát thực tế, còn mang tính chủ quan. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của một số ngành, địa phương, đơn vị chưa nghiêm túc và kịp thời, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành.

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013

Năm 2013 là năm bản lề, có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Tình hình trong nước có những thuận lợi: lạm phát cơ bản được kiềm chế, các chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh phát huy tác dụng tích cực, lãi suất tín dụng giảm, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn. Tỉnh ta còn có thuận lợi riêng, đó là: môi trường đầu tư kinh doanh đã được cải thiện; kết cấu hạ tầng tiếp tục được đầu tư; một số dự án như: Thủy điện Bá Thước 2, ferocrom Cổ Định, nhiệt điện Nghi Sơn I, xi măng Công Thanh mở rộng... dự kiến hoàn thành đi vào hoạt động; Khu kinh tế Nghi Sơn là một trong 5 khu kinh tế ven biển được ưu tiên đầu tư trong giai đoạn 2013 - 2015, đặc biệt là Dự án lọc hoá dầu Nghi Sơn dự kiến sẽ được khởi công xây dựng, là nhân tố quan trọng, tạo đà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong những năm tới.

Tuy nhiên, năm 2013 cũng còn nhiều khó khăn, thách thức: kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định, áp lực tăng lạm phát vẫn còn khá lớn, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, sức mua của thị trường trong nước còn thấp, xuất khẩu sẽ khó khăn do thương mại toàn cầu phục hồi chậm. Trong tỉnh, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế còn thấp; kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường..., là những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu kế hoạch năm 2013.

Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu

Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển; tập trung tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là những ngành hàng tỉnh có tiềm năng, lợi thế; nâng cao chất lượng các lĩnh vực văn hóa - xã hội; giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc; bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh; nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ của chính quyền các cấp nhằm thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu kế hoạch năm 2013.

Về kinh tế

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 11% trở lên, trong đó: nông, lâm, thủy sản tăng 3,9%; công nghiệp - xây dựng tăng 12,8%; dịch vụ tăng 12,1%.

- Cơ cấu các ngành kinh tế: Nông, lâm, thủy sản chiếm 19,5%; công nghiệp - xây dựng chiếm 45,3%; dịch vụ chiếm 35,2%.

- GDP bình quân đầu người đạt 1.180 USD/năm.             

- Sản lượng lương thực đạt 1,6 triệu tấn trở lên.

- Kim ngạch xuất khẩu đạt 820 triệu USD.

- Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn khoảng 46.000 tỷ đồng.

- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 6.558 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa 4.581 tỷ đồng, thu xuất nhập khẩu 1.977 tỷ đồng.

Về xã hội

- Giải quyết việc làm cho 60.000 lao động (xuất khẩu 10.000 lao động).

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%.

- Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3% trở lên.

- Tốc độ tăng dân số tự nhiên dưới 0,68%.

- Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế: 15%.

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 18,7%.

Về môi trường

- Tỷ lệ che phủ rừng đạt 51%.

- Tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 77%.

- Tỷ lệ chất thải rắn, chất thải y tế được thu gom, xử lý đạt 81%.

Nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu

- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 02/NQ-TU của Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và Chương trình hành động cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh đến năm 2015. Công bố công khai, rộng rãi các quy hoạch, kế hoạch và các cơ chế, chính sách của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử của tỉnh, website của các ngành, địa phương, nhất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành, sản phẩm chủ yếu, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển đô thị, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nghiên cứu, tìm hiểu cơ hội đầu tư. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư tiếp cận đất đai. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa, một cửa liên thông, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng, thành lập doanh nghiệp, thuế, hải quan, nhằm giảm bớt đầu mối, nâng cao tính minh bạch, rút ngắn thời gian giải quyết công việc cho doanh nghiệp và người dân.

Tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống các quy hoạch (ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu), đặc biệt là quy hoạch xây dựng (tỷ lệ 1/500 và 1/2000) theo hướng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm cho các đô thị phát triển bền vững; đồng thời tạo điều kiện đẩy mạnh thu hút đầu tư và tạo vốn từ quỹ đất, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Tập trung khai thác, quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn ODA, NGO; tăng cường chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án ODA, đảm bảo đúng yêu cầu đã cam kết với nhà tài trợ, nhất là các dự án: Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội thành phố Thanh Hóa, Phát triển nông thôn tổng hợp Miền Trung, Cấp nước đô thị Lam Sơn - Sao Vàng; khẩn trương hoàn thành công tác đấu thầu, GPMB để sớm khởi công các dự án đã ký hiệp định như: hệ thống tưới Bắc sông Chu - Nam sông Mã, cải tạo hệ thống thoát nước Bỉm Sơn, đê tả sông Cầu Chày... Tiếp tục đấu mối, hoàn chỉnh hồ sơ theo yêu cầu của nhà tài trợ để ký hiệp định các dự án: tăng cường hệ thống y tế tỉnh, huyện - giai đoạn 2, cấp nước sinh hoạt vùng đồng bằng sông Hồng; tích cực vận động tài trợ các dự án: Bệnh viện Phụ sản, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Trường THPT chuyên Lam Sơn. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung danh mục dự án vận động ODA phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh và chương trình ưu tiên đầu tư của các nhà tài trợ; đồng thời đẩy mạnh quan hệ, hợp tác với các tổ chức phi chính phủ để vận động, thu hút nguồn vốn NGO và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NGO.

Đổi mới nội dung, phương thức vận động, xúc tiến đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; chuẩn bị kỹ nội dung, danh mục dự án và các đối tác mời gọi đầu tư, phối hợp chặt chẽ với Cục đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổ chức một số cuộc xúc tiến đầu tư ở các nước có tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc... Tiếp tục rà soát, giảm bớt đầu mối, hồ sơ và rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính cho nhà đầu tư nước ngoài.

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hình thức BT, BOT, PPP. Rà soát nhu cầu vốn còn thiếu của các dự án đầu tư từ nguồn NSNN, TPCP, nhất là các dự án đầu tư từ nguồn tăng thu, nguồn kết dư, dự phòng ngân sách Trung ương để tích cực đấu mối với các Bộ, ngành Trung ương, tranh thủ tối đa vốn bổ sung của Trung ương để hoàn thành dứt điểm các dự án đang đầu tư; quản lý, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay Kho bạc Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi để nâng cao hiệu quả đầu tư.

- Tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh; giảm lượng hàng tồn kho; tạo chuyển biến rõ nét trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng

Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng vùng lúa thâm canh năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, phấn đấu đạt 55 nghìn ha. Tiếp tục xây dựng cánh đồng mẫu lớn, tạo điều kiện đưa cơ giới hóa, đẩy mạnh thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Xây dựng hình thành các vùng sản xuất rau an toàn tập trung, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y và bảo vệ thực vật để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Nhân rộng các mô hình liên kết, hợp tác có hiệu quả giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh trồng rừng sản xuất, trồng cao su; thực hiện các biện pháp thâm canh, nâng cao chất lượng, hiệu quả vùng luồng tập trung; tiếp tục làm tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và phòng chống cháy rừng, nhằm nâng cao hiệu quả nghề rừng.

Phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại theo mô hình công nghiệp, bảo đảm an toàn dịch bệnh, vệ sinh môi trường; duy trì chăn nuôi nông hộ theo hình thức nuôi công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhằm khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; phát triển nhanh đàn bò sữa, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến. Tăng cường phòng chống dịch bệnh, vệ sinh thú y, kiểm soát giết mổ, từng bước hình thành sản phẩm chăn nuôi sạch.

Phát triển thủy sản cả nuôi trồng, đánh bắt, gắn với chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá; khai thác tối đa tiềm năng nước mặn, nước lợ và nước ngọt để nuôi trồng thủy sản, khuyến khích nuôi thâm canh, áp dụng công nghệ cao, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống, thức ăn, kiểm soát dịch bệnh và môi trường vùng nuôi. Tạo điều kiện cho ngư dân vay vốn đầu tư nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ; ứng dụng công nghệ hiện đại trong bảo quản hải sản để giảm tổn thất, giảm tỷ trọng sản phẩm sơ chế, tăng sản phẩm chế biến. Đổi mới công tác quản lý, nâng cao hiệu quả khai thác các cảng cá, bến cá, tạo điều kiện phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá.

Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch; thực hiện lồng ghép các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh với các nguồn huy động của nhân dân để xây dựng nông thôn mới, phấn đấu năm 2013 có thêm 5 xã hoàn thành 19 tiêu chí nông thôn mới và bình quân mỗi xã tăng thêm 3 tiêu chí so với năm 2012.

Tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy năng lực sản xuất hiện có, đầu tư nâng cấp, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Nắm chắc tình hình hoạt động của các doanh nghiệp theo từng nhóm ngành, nhóm sản phẩm để có biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm, giải phóng hàng tồn kho... Tạo mọi điều kiện để các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, nhất là các dự án dự kiến hoàn thành trong năm 2013 như: xi măng Công Thanh mở rộng, nhiệt điện Nghi Sơn I, thủy điện Bá Thước 2, chế biến thủy sản Giang Linh... Rà soát các biên bản ghi nhớ đã ký với các tập đoàn, tổng công ty để vận động triển khai các dự án đầu tư đã thỏa thuận. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn, chú trọng phát triển các ngành nghề đã có thương hiệu, thị trường tiêu thụ; quan tâm du nhập, nhân cấy một số nghề mới có điều kiện và tiềm năng phát triển. Rà soát, điều tra, khảo sát, đánh giá tổng thể tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn để đề xuất các giải pháp, chính sách hỗ trợ phù hợp. 

Thực hiện tốt Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn gắn với tổ chức các hội chợ thương mại cấp huyện và thực hiện sâu rộng, có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ nhằm hiện đại hóa hạ tầng thương mại. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại; nắm chắc thông tin, kịp thời cung cấp cho các doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.

Tăng cường bảo vệ, phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch, nhất là di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ và di tích lịch sử Lam Kinh; tăng cường quảng bá giới thiệu các di tích và tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các tour du lịch kết nối các điểm du lịch của tỉnh ta với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Tập trung nguồn lực đầu tư, sớm đưa sân bay Sao Vàng (Thọ Xuân) vào khai thác, phục vụ vận tải hàng không dân dụng; chấn chỉnh công tác quản lý, văn hóa phục vụ, đưa hoạt động du lịch đi vào nề nếp, có tính chuyên nghiệp và hấp dẫn du khách; đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch, chuẩn bị điều kiện để tổ chức “Năm du lịch quốc gia 2015 tại Thanh Hoá”.

Chỉ đạo ngân hàng thực hiện tốt chính sách tín dụng của Trung ương trên địa bàn; chấp hành nghiêm quy định về trần lãi suất huy động và cho vay; tăng cường các biện pháp huy động vốn; tiếp tục rà soát, đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện cho vay, tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp và nhân dân vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng; tập trung chỉ đạo giải quyết những vướng mắc trong công tác GPMB để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án

Tăng cường quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng, trọng tâm là thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng vốn NSNN, TPCP theo Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 07/CT-UBND và văn bản số 2782/UBND-THKH của Chủ tịch UBND tỉnh. Các chủ đầu tư tập trung đôn đốc, chỉ đạo nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, kiên quyết không gia hạn thời gian thi công đối với nhà thầu chậm tiến độ mà không có lý do chính đáng. Quản lý chặt chẽ việc tạm ứng và sử dụng vốn tạm ứng; nghiệm thu, lên phiếu giá khối lượng hoàn thành các gói thầu đã đủ điều kiện để hoàn ứng, nhất là các dự án có số dư tạm ứng lớn, số dư tạm ứng từ năm 2011 trở về trước. Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh về ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đấu thầu, quản lý dự án, quản lý chất lượng công trình; xử lý nghiêm các chủ đầu tư, nhà thầu vi phạm quy định trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng.

Rà soát, đánh giá thực trạng công tác GPMB của các dự án để có biện pháp tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ bồi thường GPMB. Tiếp tục huy động cả hệ thống chính trị tham gia GPMB; đồng chí Bí thư, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo GPMB phục vụ các dự án đầu tư trên địa bàn và chịu trách nhiệm cá nhân nếu để xảy ra chậm trễ, kéo dài. Chủ đầu tư ưu tiên bố trí vốn để thực hiện công tác bồi thường GPMB. Tăng cường tuyên truyền, vận động các tổ chức, hộ gia đình tự giác chấp hành quy định của pháp luật về bồi thường GPMB; kiên quyết cưỡng chế đối với các trường hợp chây ỳ, vi phạm quy hoạch xây dựng; xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi xúi giục, lôi kéo, kích động nhân dân chống đối trong công tác GPMB và cán bộ, công chức cố tình thực hiện kiểm kê, áp giá sai quy định của pháp luật.

Đối với các dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, các dự án lớn, quan trọng, dự án đầu tư nước ngoài, Nhà nước trực tiếp thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư, tạo thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án; không phó mặc các nhà đầu tư trực tiếp thỏa thuận với người sử dụng đất về giá bồi thường, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây dựng khu tái định cư, nhất là các khu tái định cư phục vụ GPMB các dự án trong KKT Nghi Sơn, TP. Thanh Hóa và một số dự án lớn khác; việc đầu tư xây dựng các khu tái định cư phải được thực hiện đồng thời với việc xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư, đảm bảo sau khi phê duyệt phương án có điều kiện thực hiện di dân để GPMB.

Xây dựng và ban hành quy định xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành và người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các chủ đầu tư trong việc thực hiện công tác GPMB; tiếp tục sửa đổi, bổ sung Quyết định số 2072/2010/QĐ-UBND của UBND tỉnh quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án trên địa bàn tỉnh. Kiểm điểm và xử lý nghiêm đối với các địa phương, đơn vị thiếu trách nhiệm trong GPMB.

- Xây dựng cơ chế chính sách để nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu, đẩy mạnh các biện pháp tăng thu; điều hành chi ngân sách theo kế hoạch, đảm bảo các quy định của Nhà nước

Rà soát các dự án đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất đầu tư sản xuất kinh doanh và cấp quyền khai thác các mỏ khoáng sản để yêu cầu nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, kiên quyết thu hồi các khoản nợ đọng theo quy định. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất và quy định cụ thể tiến độ nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh thăm dò, xác định trữ lượng các mỏ, phục vụ đấu giá quyền khai thác các mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.

Thực hiện tốt các biện pháp quản lý thu, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế; tập trung rà soát, phân loại các nguồn thu để có biện pháp thu phù hợp, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu vào ngân sách. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nộp ngân sách. Tiếp tục phân cấp mạnh nguồn thu cho cấp huyện, cấp xã, đồng thời có cơ chế thưởng thoả đáng để huyện, xã chủ động điều hành thu, chi phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Quản lý chặt chẽ việc sử dụng ngân sách, triệt để tiết kiệm chi, đảm bảo chi đúng dự toán được giao; kiên quyết không bổ sung các khoản chi ngoài dự toán năm 2013, trừ trường hợp đột xuất, khẩn cấp. Hàng tháng, hàng quý, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố phải rà soát các khoản thu chi ngân sách để chủ động cân đối trên địa bàn ngay trong từng tháng, từng quý theo kế hoạch.

- Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội; tăng cường đào tạo nghề, giải quyết việc làm; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội

Đổi mới công tác tổ chức, quản lý khoa học công nghệ theo hướng thiết thực, hiệu quả, gắn với phát triển những sản phẩm có chất lượng, tỉnh có lợi thế và phục vụ đời sống nhân dân; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ; đầu tư nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời có chính sách thu hút cán bộ có trình độ tham gia nghiên cứu. Rà soát, giảm bớt các thủ tục, hồ sơ không cần thiết trong việc giao dự toán và thanh quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ, tạo thuận lợi cho người làm công tác nghiên cứu. Tăng cường kiểm tra, giám sát tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường khoa học công nghệ.

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn và giáo dục miền núi; chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, kỹ năng sống, ngoại ngữ, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường, lớp học trên địa bàn; xây dựng định mức học sinh/lớp phù hợp với từng vùng, địa phương trong tỉnh, làm cơ sở để xác định số lớp và biên chế giáo viên. Đồng thời, rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên để sắp xếp, bố trí lại cho phù hợp. Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Rà soát, đánh giá kết quả thực hiện Đề án liên kết đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học và sau đại học với các trường đại học nước ngoài của Trường Đại học Hồng Đức; phối hợp với Trường Đại học Y Hà Nội để thành lập Phân hiệu Đại học Y tại Thanh Hóa. Chấn chỉnh hoạt động liên kết đào tạo, dạy thêm, học thêm sai quy định; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc điều động, thuyên chuyển, tiếp nhận và tuyển dụng cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên hành chính các trường học và chấn chỉnh tình trạng lạm thu tại các trường học và cơ sở đào tạo.

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cao trong khám, điều trị tại các cơ sở y tế; chuyển giao kỹ thuật điều trị chuyên sâu cho bệnh viện tuyến huyện, mở rộng điều trị ngoại trú để giảm quá tải cho bệnh viện tuyến tỉnh; đổi mới cơ chế quản lý nhằm đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các cơ sở y tế. Tăng cường công tác y tế dự phòng, chủ động phát hiện, bao vây xử lý khi có dịch bệnh xảy ra; kiểm soát chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm thiểu các vụ ngộ độc thực phẩm. Nâng cao chất lượng dịch vụ dân số, gắn với chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, hạn chế tình trạng mất cân bằng giới tính và sinh con thứ 3.

Tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân; đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới; chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức Lễ hội Lam Kinh, kỷ niệm 580 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc Lê Lợi và đón nhận bằng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh là di tích quốc gia đặc biệt. Đấu mối chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương để hoàn chỉnh hồ sơ, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể cấp quốc gia bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa Hàm Rồng, di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ. Duy trì các phong trào thể thao quần chúng; phát triển thể thao thành tích cao; chuẩn bị tốt lực lượng vận động viên và các điều kiện tập luyện để tham gia thi đấu các giải quốc gia và quốc tế. Tổ chức Đại hội TDTT các cấp, tiến tới Đại hội TDTT toàn tỉnh năm 2014; chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ 9 năm 2015 tại Thanh Hoá – Nghệ An.

Tăng cường đào tạo nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động; thực hiện tốt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; nâng cao hiệu quả hoạt động của sàn giao dịch việc làm và các trung tâm giới thiệu việc làm, từng bước hình thành thị trường lao động của tỉnh. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đối với lao động mất việc làm; nắm chắc tình hình đời sống nhân dân, nhất là dịp Tết, kỳ giáp hạt để hỗ trợ kịp thời, không để người dân thiếu đói.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ tiền lương, BHXH, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại các doanh nghiệp, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật lao động cho người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện tốt Đề án hạn chế tranh chấp lao động và đình công ở các khu công nghiệp. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn, bảo hộ lao động, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp và công trình xây dựng, hạn chế số vụ tai nạn lao động.

- Tăng cường quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản; bảo vệ, cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

Rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định về quản lý tài nguyên, khoáng sản và bảo vệ môi trường trên địa bàn; thực hiện tốt quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015; tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản. Rà soát các dự án được giao đất, cho thuê đất để đầu tư sản xuất kinh doanh, kiên quyết thu hồi và xử lý nghiêm đối với các trường hợp không triển khai thực hiện hoặc sử dụng đất sai mục đích, kém hiệu quả, tập trung vào địa bàn TP. Thanh Hóa, thị xã Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn và các huyện giáp ranh TP. Thanh Hóa. Rà soát các dự án chế biến khoáng sản, thu hồi các dự án thực hiện chậm và xử lý nghiêm đối với các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, các công trình xây dựng, nhất là các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân và trách nhiệm của xã hội trong bảo vệ môi trường; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư thu gom, xử lý và tái chế rác thải, ứng dụng công nghệ mới trong xử lý ô nhiễm môi trường.

Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng cháy, chữa cháy; nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống bão lụt. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình hồ đập, đê điều, đảm bảo hoàn thành trước mùa mưa bão; thường xuyên kiểm tra đê, kè cống, tu bổ, xử lý các vị trí xung yếu; xây dựng kế hoạch từng bước di chuyển nhân dân ra khỏi vùng có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất ở miền núi và ngập úng ở vùng trũng. 

- Bảo đảm quốc phòng, an ninh và ổn định chính trị xã hội trên địa bàn

Củng cố thế trận quốc phòng, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh gắn với phát triển kinh tế, xã hội và phòng chống thiên tai; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời những vụ việc nổi cộm về an ninh biên giới, trên biển, an ninh tôn giáo và an ninh cơ sở, không để phát sinh thành điểm nóng.

Đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, đòi nợ thuê, tín dụng đen, buôn bán ma túy và truyền đạo trái phép; nâng cao hiệu quả điều tra, xử lý tội phạm về môi trường. Quản lý chặt chẽ lao động nước ngoài trên địa bàn; phối hợp với chính quyền các địa phương kiểm soát, ngăn chặn tình trạng ngư dân làm thuê bất hợp pháp cho các tàu cá nước ngoài, đồng thời tuyên truyền, kêu gọi các ngư dân đang làm thuê bất hợp pháp cho tàu cá nước ngoài trở về địa phương. Thực hiện đồng bộ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ, số người chết và bị thương do tai nạn giao thông.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự xã hội; mở rộng hình thức lắng nghe ý kiến và đối thoại trực tiếp với người dân; tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

- Tạo chuyển biến rõ nét trong công tác chỉ đạo điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Đổi mới nội dung, phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng sâu sát, cụ thể, quyết liệt, cương quyết và có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những khâu then chốt để tạo sự chuyển biến rõ nét trên các lĩnh vực, đảm bảo hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Tiếp tục giảm hội họp, dành thời gian đi kiểm tra, chỉ đạo cơ sở, làm việc với các nhà đầu tư để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; tăng cường đấu mối với các Bộ, ngành, các nhà tài trợ để tranh thủ các nguồn vốn đầu tư.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong chỉ đạo điều hành, thực hiện nhiệm vụ; xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc gây khó khăn, phiền hà khi giải quyết công việc cho tổ chức, công dân. Tiếp tục hoàn chỉnh Quy định về tiêu chí đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ gắn với tăng cường theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ của các sở, ngành, địa phương, đơn vị.

Trước mắt, trong năm 2013 các cơ quan: Văn phòng UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng tiến hành thực hiện việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm của toàn bộ các phòng, ban, đơn vị, làm cơ sở cho việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ, bảo đảm khoa học, minh bạch và hiệu quả; các sở, ban, ngành cấp tỉnh còn lại và UBND các huyện, thị xã, thành phố tiến hành lựa chọn một số phòng, ban, vị trí công việc để xây dựng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm của đơn vị mình và tiếp tục hoàn thiện các vị trí còn lại trong năm tiếp theo.

Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong giải quyết công việc; từng cơ quan, đơn vị phải xây dựng quy chế phối hợp cụ thể, rõ ràng giữa các phòng, ban, bộ phận; đồng thời xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan; tăng cường phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp; thường xuyên giữ mối liên hệ để tranh thủ tốt nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Thực hiện tốt Kế hoạch cải cách hành chính của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015; trọng tâm là rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành và công bố công khai các thủ tục hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng ISO vào công tác quản lý, điều hành. 

Tăng cường thanh tra, nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng, tập trung vào các giải pháp phòng ngừa. Thực hiện nghiêm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước triệt để tiết kiệm, hiệu quả, đúng chế độ, định mức quy định. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Báo cáo số 191/BC-UBND ngày 30/11/2012 của UBND tỉnh Thanh Hóa